Ảnh của Tôi
16 Phan Ngọc Tòng P.2, TP.Bến Tre, Vietnam
Tin học - Bến tre - Vi tính - Bến Tre - Laptop Bến Tre - Thiết kế - Hướng dẫn - Sửa chữa Lắp ráp cài đặt - Phục hồi ảnh cũ - Hướng dẫn - Dựng đĩa Phim Nhạc - ảnh Kỹ thuật số - Đồ họa - CD&DVD Soft Driver... Các dịch vụ liên quan đến vi tính tin học. Nơi bạn đến là được. Keyword: Tin hoc Ben tre tnx -Vi tinh Ben Tre tnx - Tân Nam Xương - Bến Tre tin hoc tnx - Ben Tre vi tính tnx -bentretnx - vitinhtnx

@ Nhận chụp ảnh, quay phim cưới hỏi, sinh nhật, đám tiệc..., tạo album ảnh & CD & DVD kỹ niệm, album nhạc..., đội ngủ nhà nghề với công nghệ studio kỹ thuật số hiện đại. @

 Hướng dẫn và nhận thiết kế: @Film @Ảnh kỹ thuật số + Ra ảnh dựng phim cho máy chụp hình, máy quay phim Kỹ thuật số,các loại camera... máy điện thoại di động

ồ họa @Corel @Photoshop

@Phone: 016.460.460.22

Đùi gà, cẳng gà đá

  
Cái tinh, cái tướng gà hiện rõ ở đôi chân. Đùi là thượng túc. Cẳng là hạ túc. Thượng hạ đều nhau là tướng tầm thường. Hạ đoản, gà nhanh nhẹn, biến hoá vô thường. Gối chùng, gà có sức bật cao, mạnh. Gối thẳng, gà thường chậm, ít biến hoá. Kheo treo là tướng lạ, tướng quý khiến đôi chân gà khi vào trận thực hư biến hoá không biết đâu mà lường. Chính danh trên mặt vẩy, vô vi biến hoá trong phát hiện suy đoán là nguyên tắc cơ bản của thuật xem tướng chân gà. Ống chân của gà có hai mặt âm- dương . Mặt trước (mặt dương) vuông vức, có hai hàng vẩy to, hai bên mép là thành sắc lạnh. Mặt sau (mặt âm) tròn, mềm. lấm tấm những vẩy nhỏ như hạt kê. Mặt âm phải sáng bóng, nổi hạt và ấm nóng. Mặt dương  phải khô lạnh, phải biểu hiện chính danh, nghĩa là phải có dấu hiệu của sự tôn quý thanh cao, hàm đủ: Nhân - Trí - Hùng - Lược.
            Ở mặt dương của ống chân gà phía trên áp gối là thiên, phía dưới áp bàn là địa. Hàng trên cùng vốn có hai vẩy, nếu chỉ có một vẩy che kín là con gà của trời. Ở hàng một là đệ nhất án thiên, hàng hai là đệ nhị án thiên, hàng ba là đệ tam án thiên. Sang đến hàng thứ tư lại trở về gà tầm thường. Đạo dịch nói rồi, thịnh mãi sẽ suy vậy.Gà con của trời ra đòn vũ bão hiên ngang như sấm gầm, chớp giật. Điểm nổi bật là gà không bao giờ chịu khuất phục, cho dù thân thể bầm nát. Nhưng đã là gà con của trời thường có thiên sứ mách bảo đòn hiểm để thoát nạn, giành chiến thắng bất ngờ. Gà án thiên cũng giống con gà ô , không cắn gà con lại còn cho chúng ăn và không đánh kẻ thù khi chúng chưa ra đòn đánh trước... Áp bàn mà chỉ có một vẩy che kín gọi là tướng quỷ hay tướng phủ địa. Tướng này cho thấy gà có nhiều đòn hiểm, đòn tập hậu, luồn cánh hay tạt chéo. Đòn gà biến hoá vần vũ như thiên la địa võng, dễ dàng hạ gục kẻ thù hung hăng, hở miếng, lộ sườn. Cẳng gà (Bí quyết chọn và nuôi gà đá)
“Lưỡng túc tam phân”
Cẳng gà còn gọi là “quản gà”, “cán gà”.
Đôi “cán gà” hay thì phải ngắn và nhỏ, đùi và cán tính chung là ba phần, thì cán chỉ chiếm có một, thế mới tốt.
+ Quản được thắt eo ở giữa, eo nhiều tốt, nhìn đối diện, đấy gọi là “chân loa kèn”.
Toàn thể cặp cán chỉ thấy gân và xương mới tốt, không nên thịt bủng beo, bốn móng của gà thì ngón phải dài thật dài và phân chia từng mắt rõ ràng, nhìn ngón cho thanh, đừng mập tròn, ấy là những đôi chân của thiên tài cả.
+ Đôi cẳng có nhiều màu khác nhau:
Trắng, vàng (nghệ thúi), trắng ngà, đen, xanh thẫm lá cây, xanh da trời, chì đốm, đốm trắng xanh, đốm trắng đen, vàng đốm. Nhưng chỉ có cặp chân trắng và chân xanh trội hơn cả, “xanh lá cây”, những dòng này nổi tiếng dữ tợn, đã chân xanh, thường có đôi mắt ếch (màu nâu), rất lỳ lợm, gan dạ có thừa. Dân gian có câu ví: “chân xanh mắt ếch đá chết không chạy”.
Nếu chân trắng thường đi đôi với mắt trắng, tài ba có thừa.
+ Cẳng gà hình dáng khác nhau:
- Cẳng vuông – cạnh thước
- Cẳng tròn – khô
- Cẳng khô như cẳng gà chết, nhám xàm, thứ chân này quý lắm, vảy thường ôm sát, đá rất đau, tưởng không nên lầm với thứ chân ghẻ, sần sùi tróc vảy bở tơi.
Thứ cẳng vuông, tốt, đá đau, nhưng không bằng chân khô đét nói trên.
Cẳng tròn, muốn tốt thì lại phải nhỏ mới hay, thêm eo giữa, không thấy khô gọi là cẳng thường, không tốt.
+ Gà đòn rặt đôi cẳng đương nhiên lớn to hơn gà rựa rặt. Sự to và nhỏ, ta phải lấy đó mà cân lường cho đúng.
+ Gà cẳng quá to, sẽ sinh chậm chạp, đá không ngay đòn.
+ Đôi cẳng, một cẳng đen một cẳng trắng, hoặc một xanh một vàng gọi là gà “thư hùng nhật nguyệt” ấy là gà hay rất hiếm.
“Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân thì chơi chi giống đó”

Chân và vảy 

Chân gà nòi thường có hai hàng vảy với đường đất chạy hình chữ chi ở giữa hai hàng vảy. Gà nòi với ba hay bốn hàng vảy thường rất hiếm. Có sách ghi rằng gà ba hàng vảy tuy đá nhanh đòn nhưng đòn không mạnh. 
Trong khoảng hơn ba thập niên qua, các tay chơi gà ở miền Nam thường không thích gà nòi có chân màu vàng, lý do là màu chân vàng là màu của gà thịt, một lọai gà Tàu hay gà Bắc Thảo nuôi để lấy thịt. Ngày nay lọai gà chân vàng tuy chưa được ưa chuộng một cách rộng rãi nhưng cũng đã được dần dà chấp nhận trong giới mộ điệu chơi gà.

.

Chân xanh lợt
#1. Chân trắng

#2. Chân trắng

#3.Chân trắng





#4. Chân trắng

#5.Chân trắng

#6.Chân đen

#7.Chân xanh





#8.Chân xanh
#9.Chân xanh

#10.Chân vàng
 

#11.Chân vàng





#12.Chân vàng

#13.Chân trắng ngà

#14.Chân trắng ngà

#15.Chân trắng ngà





#16.Chân xám

#17.Chân xanh lá

#18.Chân xanh lá

#19.Chân xanh lá





#20.Chân xanh lá

#21.Chân xanh lá

#22Chân xanh lá
 






 

Chọn gà tài trước tiên là xem hình dáng, tướng mạo, xét kỹ 5 bộ phận trên mình gà, gọi là ngũ thường.

    * Mỏ to thẳng, miệng rộng, đầu mồng dâu, mắt chữ điền.
    * Cổ to, dài, thẳng.
    * Lưng rộng, cánh dài.
    * Đùi to, phần đùi dài hơn phần cán.
    * Chân thanh, ngón thắt, vảy mỏng - khô.

    Tuy nhiên, như ông bà xưa thường nói "dị kỳ tướng tất hữu kỳ tài", cũng có trường hợp gà có dị tật nhưng có tài.

    Về chọn màu lông, trong các loại màu ô, xám, tía, nhạn, cải, ó... thông thường có 3 màu lông phổ biến: ô, tía, xám. Gà màu ô phải là ô ướt hoặc ô toàn sắc; gà tía phải là tía mật ngã màu đen; gà xám phải là xám khô, vì vậy dân gian mới có câu rằng: "Nhứt điều ô, nhì xám khô, ba ô ướt".


    Nếu như chọn gà xám, không nên chọn gà chân trắng, vì gà xám chân trắng sức không bền, dễ thua, ngược lại gà tía chân trắng thì hay, bén đòn nên có những câu:

    Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua.

    Gà trắng chân chì mua chi giống ấy.

    Nếu chọn được tía ngũ sắc (năm màu lông) chân trắng, thì khó có gà nào địch nổi, trừ thần kê. Chỉ giống gà ô mới có thần kê, vậy mới có câu:

    Gà ô chân trắng mỏ ngà, đá đâu thắng đấy gọi là thần kê.
   Thư hùng kê: 1 chân trắng, 1 chân đen hay 1 chân vàng, 1 chân xanh ... Tóm lại là mỗi chân 1 màu khác nhau.

   Lục đinh: Gà 6 cựa.

  
1 cựa trắng, 1 cửa đen hoặc gà ô chân trắng cựa đen hoặc ô chân vàng, cựa đen, mỏ đen.

 
   Móng rồng: Đôi ngón nội cong vào giữa, còn gọi là “bán nguyệt nội”, nếu được vảy xếp nhô lên, cạnh sắc bén từ ngón đến quản thì càng tốt, gọi là “vảy rồng”
Gà cò : Gà ngủ đứng bằng 1 chân



Sơ lược về chân gà

Chân gà có 4 ngón:
Ngón giữa:Dài nhất,gọi là ngón ngọ
Ngón ngoài cùng gọi là ngón ngoại
Ngón trong cùng gọi là ngón nội
Ngón nhỏ,ngắn gọi là ngón thới
Ngón ngọ có 18_19 vảy: gà thường
Ngón ngọ có 20_21 vảy:gà tạm
Ngón ngọ có 22 vảy trở lên: gà tốt

Mặt tiền chân gà có 2 hàng vảy,được gọi như sau:

Theo ngón giữa<ngọ> đi thẳng lên gối ,gọi là hàng Nội hoặc hàng Quách.

Theo ngón ngoại đi thẳng lên gối,gọi là hàng Ngoại hoặc hàng Thành

Theo ngón thới đi lên gọi là hàng Thới

Mặt sau có một hàng vảy lớn,gọi là hàng Hậu

Từ cựa lên đến gối,gọi là hàng Độ

Giữa hàng Hậu và hàng Độ có một hàng vảy từ cựa lên gối,gọi là hàng Kẽm <mặt trong>

Giữa hàng Ngoại và hàng Hậu có một hàng vảy nhỏ lăn tăn,dài từ gối xuống,gọi là hàng Biên.

 DANH XƯNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VẢY GÀ


 1. Án Thiên: Tức một vảy lớn nằm sát đầu gối trên cao nhất.Nếu cách gối một hàng thì gọi là Án Thiên 2, cách một hàng nữa là Án Thiên 3. Gà có vảy này sức lực bền bỉ, tránh né tài tình, ra đòn thường chính xác. Rất Tốt.

2.Phủ địa: Có hình dáng giống như Án Thiên,nhưng được đặt dưới cựa,sát đầu bốn ngón chân. Gà có vảy này khi chinh chiến rất tinh nhanh, cựa địch khó lòng xuyên thấu. Tốt.

3.Khai Tiền: Một vảy thuộc hàng Thành nứt ra,bất luận trên hay dưới cựa đều không tốt. Gà này không nên dùng,vì thời vàng son đã tận. Rất Xấu.

4.Vấn Cán: Hình dáng như Án Thiên và Phủ Địa,nhưng được đặt ngoài nơi của Án Thiên và Phủ địa. Vảy này nếu trên cựa thì không tốt, nếu vấn 3 vảy sát đầu gối thì tốt, từ bốn vảy tuyệt đối không

nên dùng.

5. Tứ Hoành Khai: Dưới gối có 4 vảy nhỏ, còn gọi là Đâu Đầu Nhịn Miệng< Xấu>. Sát gối có nhiều vảy nhỏ hoặc nằm từng chùm không khít nhau gọi là Nát Gối hoặc Ngũ Tu<5 vảy nhỏ>. Gà có vảy này kém tài,bở hơi,yếu sức ,hay bị mù mắt khi ra trận.
 6.Dậm Chậu <Xấu> : Một vảy nhỏ nằm sát ngón trước< trước khi giáp ngón>.
 7. Rọc Chậu: Vảy ở sát chân ngón bị cắt đứt< Xấu>
 8. Ngậm Thẻ: Hai hàng vảy đều, bỗng nhiên có một vảy chen vào đường kẻ nhỏ,chia đôi ra. Gà này đá tứ tung,vô đòn vô thế.
 9. Liên Giáp Ngoại: Hai vảy ở hàng Thành dính nhau thành một vảy lớn, gà này không tốt. Nhưng nếu từ hàng thứ 4 từ gối xuống có vảy này thì dùng được,gọi là Kích Biên.
 10. Huyền Trâm: Còn gọi tên khác là Trung Huyền, là một vảy nhỏ nằm giữa hàng Thành và Quách, được đặt ngay và ngang với cựa. Vảy này có màu đen tuyền. Gà này đâm nhiều,chém dữ, thường đâm hỏng mắt đối thủ từ chân có vảy này.
 11. Liên Giáp Nội:  Hai vảy ở hàng Quách dính lại thành một vảy to. Nếu sát ngay cựa có hình giống miệng rồng gọi là Hàm Long, giống miệng cọp gọi là Hổ Khẩu. Nếu có hình tròn gọi là Nhật Thần. Gà có vảy này cựa đâm đòn độc, vào yếu huyệt của đối thủ.
 12. Gạc Thập: Bốn vảy sát nhau, hai vảy hàng Thành,hai vảy hàng Quách , tạo nên ở giữa có hàng chữ thập, đặt ngang hàng với cựa. Gà có gạc thập chân đâm cựa liên hoàn,rất tốt.
 13.  Khai Vương: Bốn vảy dính nhau,tạo thành hình chữ Vương, gà tốt.
 14. Ám Long : Còn gọi là Ẩn Long hoặc Vảy Yến., vảy này được đặt ngay ngón giữa,trước khi đụng ngón.
Nếu vảy đó màu Hồng càng tốt,gọi là Ẩn Son. Gà này là “Linh Kê”.
 15. Khai Hậu: Một trong những vảy Hậu bị nứt ra,vỡ đôi. Gà này không tốt. Ngoại trừ mặt tiền có
vảy Vấn Cán thì vẫn dùng được.
 16. Trường Thành: hàng Thành lấn sâu vào hàng Quách, rất tốt.
 17. Địa Giáp: Một vảy nhỏ mọc giữa lòng bàn chân,vảy này luôn chạm đất.
Gà có vảy này là “Linh Kê”.
 18. Liên Châu: Vảy của ngón nội đi thẳng lên quá cựa, nó sẽ nhập vào đường thới . Nếu thẳng, no tròn từ trên xuống gọi là Liên Châu. Gà này có tài dùng cựa rất giỏi.
 19. Nhân Tự:  Hai hàng vảy nhập một tạo đường chỉ ra hình chữ Nhân, gọi là Giáp Long Nhân Tự, là gà rất quý.
 20. Liên Móng : Những vảy trên ngón dính đôi hoặc ba,cho biết cái chân ấy mạnh. Khi đá,gà dùng

21. Đại Giáp : Trên hàng Quách có 3 vảy dính lại tạo thành một vảy lớn,đóng gần cựa là tốt nhất Gà này có nhiều thế, đâm đòn hiểm độc. Nếu Đại Giáp mà có mở miệng ngậm một vảy nhỏ gọi là Đại Giáp Ngữ Ngọc, gà này tài cao hiếm thấy, sử dụng cựa nhanh như tên bắn.
 22. Trễ Giáp : Hai vảy ở hàng Quách song song sát nhau,cùng đuôi chỉ xuống vào cựa. Gà có Trễ Giáp ra đòn rất nhanh, hay tạt hay quăng, rất tốt.
 23. Giáp Cần Hiếm lắm < Quý Kê> : Một vảy mọc trên cần cổ gà,được lông che kín, gà đứng nước cao, càng khuya càng trổ nhiều tài hiếm thấy.
 24. Mai Cựa < Tốt> : Mặt trước,phía trong,tại hàng biên phụ sát cựa có 4,5 vảy dính chùm,hình tựa như hoa mai. Gà có hậu vận tốt.
 25. Thập Đao <Tốt> : còn gọi là Thập Cựa, tại hàng biên phụ ,ngang với cựa có hình chữa thập nhỏ.
 26. Ác Hổ Báo <Tốt> : Móng của ngón ngọ nổi lên môt chấm nhỏ màu Đen hoặc Xanh. Gà này có đòn ác độc, khó có địch thủ nào chịu nổi.
 27. Xiên Đao <Tốt> : Hình dáng như vấn cán,nhưng ở đầu hàng Thành cao,đầu hàng Quách thấp hơn,chĩa xéo xiên vào cựa.  Nếu hàng Quách có 1 vảy nhỏ,dài,chỉ vào cựa,cũng gọi là Xiên Đao.
 28. Hàm Rập <Tốt> : Hàng Thành và hàng Quách vòng cung lên theo chiều ngang.
 29. Thư Hùng Kê <Quý> : Gà có đôi chân Nhật Nguyệt, một chân trắng một chân đen, Hoặc một chân Vàng một chân Xanh. Gà này rất hiếm, văn võ song toàn,khó có đối thủ.
 30. Mai Hồng < Tốt> : Chân gà có 3 màu rõ rệt, một nửa chân trở lên màu khác,một nửa trở xuống khác màu các biên nhỏ có một màu khác nữa.
 31. Tiểu Son < Tốt> : Giữa hàng Thới và hàng Quách có những vảy nhỏ như tấm, nếu một trong các vảy nhỏ ấy màu đỏ tuyền gọi là Tiêu Son hoặc Tấm Son. Gà này đá đòn hiểm ác,gan lì, đá đồng sức thường dễ thắng.
 32. Độ Son <Tốt> : Hàng vảy độ nổi lên những vảy no nê màu hồng gọi là Độ Son. Độ Son ở hàng thứ mấy thì độ đó rất dễ thắng.
 33. Hàng Trơn < Tốt> : Chân có 2 hàng vảy trơn tru sạch sẽ. Gà này lúc đá trổ nhiều đòn thế, nó nhờ kẽm hậu tốt yểm trợ.
 34. Độc Biên <Quý> : Hàng Biên có 1 hàng thẳng từ trên xuống dưới,không đứt quãng. Gà tốt.
 35. Yến Võ <Tốt> : Hình thể như Ẩn Long hay Ám Long,nhưng Yến Võ đóng tại mặt tiền cán trên bất kì vị trí nào thuộc hàng Quách.
 36. Lộc Điền Tự <Xấu> : Vảy hàng Thành và Quách châu vào nhau,nhưng được ngăn bởi đường đất giữa hơi rộng.
 37. Lộc Điền Nội < Tốt>: Gần giống như Lộc Điền Tự nhưng đường đất mũi quay vào trong, tỷ như hai tài sánh đôi. Đóng ngang cựa thì tốt,nếu không thì thường.
 38. Lộc Điền Ngoại < Xấu>: Giống như trên,nhưng đường đất mũi quay ra ngoài, gà này hữu dũng vô mưu.
 39. Ẩn Địa <Tốt> : Một vảy ẩn dưới vảy Phủ Địa, còn gọi là Bản Phủ Kích Giáp.
 40. Hoành Không <Xấu>: Tựa như Vấn Cán,quấn từ hàng Thành qua hàng Quách,cuối Quách nhỏ dần, nhưng không phải Xiên Đao. Nếu đóng từ hàng thứ 5 trở xuống, thứ 4 trở lên thì được
 41. Độ điền mới quý làm sao,Hẳn là vua cả trên cao lộng hành. Mộng Lang truy cứu nhức cả đầu nhưng cũng không tìm ra được vảy "Ðộ Ðiền". Có lẽ là vảy độ có hình vuông như chữ Ðiền chăng ?
42. Thần Ðiểu :Đến lần biên độc làm anh, Ðộc biên là một hàng vảy biên chạy từ đầu gối xuống quá chậu ra ngón ngoại. Thần Ðiểu có vảy độc biên thì đá chết địch thủ, khó có con nào thoát chết.
43.Một chân có 2 vảy sát nhau cũng gọi là Song Cúc.
44. Xuyên Thành Giáp : Dưới cựa có 2 liên giáp ngoại, đồng thời có theo 2 vấn cán . Rất tốt.
 45. Nhất Đầu Hổ : Ngón giữa,vảy gần móng có điểm lốm đốm nhỏ. Gà này khi nếm đón mới trả đòn, nhưng sức bền, đòn mạnh như vũ bão.
 46. Bạch Đầu Hổ : Toàn thể 3 móng chân đen tuyền,ngoại trừ ngón giữa có móng trắng, hai chân đều như vậy, đó là gà tài.
 47. Hắc Hổ Thới: Toàn thể 3 móng chân trước màu trắng, ngoại trừ ngón thới có móng đen. Gà này có đòn thế sáng sủa, đòn nào ra đòn ấy.
 48. Trung Cang Điểm : Ngón giữa cứ cách 2 vảy lại có một đốm, gà này đá hay nước khuya, càng lâu càng giỏi.
 49. Liệt Bái : Có đốm nhỏ ngoài đầu vảy,rất nhỏ, trên ngón giữa. Gà này có uy thế khiến địch sợ hãi mà chạy ngay trong lúc giao đấu, đôi khi chuyển bại thành thắng.
 50. Lạc Diệp : Gần vảy Liệt Bái có một vảy nhỏ dặm thêm trên ngón giữa . Gà này có nhiều đòn tài dễ hạ địch ngay trong hiệp đầu.
 51. Diệp Báo : Ngón giữa, ở đốt giữa có vảy lớn  có đốm nhỏ trên vảy.  Gà này có đòn hiểm, khi đã ra đòn thì địch phải thua chạy.
 52. Thập Hậu : Tại hàng hậu và hàng kẽm  có 4 vảy sát nhau tạo thành hình chữ thập. Gà có quý tướng.
 53. Thập Độ: Tại hàng độ và hàng kẽm có 4 vảy sát nhau tạo thành hình chữ thập. Gà giỏi, đánh đồng chạng dễ thắng.
 54. Liên Kẽm:  Hai vảy thuộc hàng kẽm dính nhau như liên giáp, báo hiệu chân ấy bảo vệ mạng gà. Chân đó có nhiều tài, vừa đánh vừa thủ.
 55. Khẩu Đao : Những vảy ở đường thới đi lên ,nếu đến cựa có một vảy hình chữ Khẩu  gọi là Khẩu Đao. Cựa ấy sử dụng rất độc. Khẩu Đao còn tên gọi khác là Ngọc Đao.
 56. Giáp Thới Phòng Đao : Hàng vảy ngón thới đi đều lên quá cựa,và cong vào ôm lấy cựa. Gà này là Kỳ Tài, có thể hạ đối thủ trong nháy mắt.
 57. Phiến Hậu : Vảy hậu mỏng và phắng, rất tốt.
 58. Long Biên: Gà có một đường biên sát hàng Thành to rõ rệt, kèm theo đó vẫn có những đường biên thường nằm cạnh. Gà này mạnh đòn quăng giỏi.
 59. Nhật Thới: Những vảy ngón thới,đếm từ móng vào khoảng 2 vảy thì có một vảy to hơn,hình chữ nhật. Gà này tinh nhanh, biết sử dụng thới vào yếu điểm của địch.
 60. Giáp Long Thới : Vảy thới gần móng có vảy hình tựa cánh bướm. Gà này dùng thới mãnh liệt, chuyên phá mặt địch bằng thới.
61. Song Long Tự: tại hành Thành và hàng Quách,hai hàng vảy xếp lên nhau và cùng cong xuống qua hai bên như hai hình bán nguyệt. Đây là chân gà quý,biết dùng cựa.
  62. Giao Long: Vảy này đóng từ hàng thứ hai hoặc ba trở xuống.Một vảy của hàng Quách,dài ngang,lấn qua hàng Thành.Đuôi ở hàng Thành,đầu hàng Quách. Gà có Giao Long hay chui lòn,cắn gối,cắn đùi,đá vỉa,đá mé.
  63. Sát Cang Điểm: Ngón giữa có hai vảy sát nhau,cùng có hai điểm đốm. Gà này có ưu thế là hay đá đùi,đá vai,đá lưng…
  64. Nhân Tự Trung Tiết: Hai vảy đóng như hình chữ Nhân tại khoảng giữa ngón ngọ. Gà này thường không may độ.
  65. Tứ Trực: Một chân có vảy Án Thiên,chân kia có vảy Phủ Địa. Vảy này thuộc Quý Kê.
  66. Hổ Trảo: Vảy gà có điểm đốm xanh,đen,hoặc đỏ gọi là Hổ Trảo. Gà này đá chắc đòn,nhiều thế hiểm ác.
  67. Vấn Án Hoành Khai: Nó có hình của vảy Phủ Địa hay Án Thiên,nhưng chính giữa có một đường lõm xuống,chia đôi vảy. Gà này đá đòn ngang hiểm hóc,hay chém hay tạc.
68. Song Phủ Đao: Hai vảy của hàng Quách đóng ngay cựa,sát nhau,cùng có 2 đầu nhọn chỉ thẳng vào cựa. Gà này nhạy cựa,khôn lanh,trả đòn tức thì.
69. Tam Vinh: Chân gà minh bạch,sạch sẽ.Hành độ,hàng kẽm phải đúng cách ,hàng biên phải liên tục,hàng hậu xuống quá cựa. Gà này là Linh kê.
70. Tứ Trụ Giáp: Một chân có 2 Án Thiên,một chân có 2 Phủ Địa. Gà này đâm nhiều chém dữ, lấy tấn công làm phòng thủ.
71. Nội Ngoại Hợp Công: Hai hàng Thành,Quách rõ ràng,phân minh,sạch sẽ. Tốt.
  72. Thượng Hạ Giao Chinh: Một Chân có 3 Quấn Cán, chân kia có 3 điểm Đen hoặc Đỏ. Gà này rất tài nghệ trong từng thế võ,thế nào cũng hung ác.
  73. Văn Võ Song Toàn: Một chân có 3 hàng vảy ở mặt tiền, chân kia có 2 hàng trơn. Gà này hay đá thế hiểm,biết lợi dụng thời cơ và sơ hở của đối phương để tung đòn hiểm ác,giết chết đối thủ trong nháy mắt.
  74. Tiền Phú Hậu Bần: Chân gà từ cựa đổ lên vảy đóng chặt,rõ ràng phân minh. Từ cựa đổ xuống đóng rời rạc,không liền mí. Gà này đá càng lâu thì càng yếu sức,không tốt.
  75. Tam Tài: Mặt tiền chân gà tính từ sát gối xuống đến vảy thứ 3, có 3 hàng vảy liên tiếp nhau.Gà có Tam Tài là Quý Kê, đòn tài mãnh liệt, đá đồng chạng dễ thắng.
  76. Bàng Khai: Tại hàng Thành hoặc Quách có 1 vảy nứt ra. Tốt.
  77. Hoàng Thành Chỉ Địa: Hàng Quách có vảy hơi lớn và xéo,chỉ xuống cựa . Chân gà này tốt,đá nhanh,đòn khéo léo.
  78. Áp Khẩu: Hàng Thới có một hàng vảy đi lên thì bỗng chia đôi thành 2 vảy nhỏ: Xấu, đường Hoa Đăng không sáng.
  79. Tứ Quý: Giống như Tam Tài,nhưng có 4 vảy từ gối xuống. Gà này rất tốt đường Sinh Đạo.
  80. Bán Nguyệt Nội< Tốt> : Đôi ngón nội cùng cong cong hình bán nguyệt,chỉ vào lòng. Gà  này rất hay,rất tài, tung cước giỏi, lúc đứng thường 2 ngón nội chạm nhau, còn gọi là móng rồng
81. Song Liên Tự : Hai chân đều có liên giáp nội đóng ngang cựa,cùng mở miệng ngậm ngọc, đường thới hoa đăng tốt. Gà này có đòn tài,thế hiểm.
  82. Ngũ Quỷ : Một chân có 3 hàng vảy liên tiếp nhau,đóng từ gối đổ xuống đến vảy thứ 5. Gà này hung ác vô cùng,khó có đối thủ cân sức.
  83. Độc Giác: Hai chân đều có 2 vảy to,cùng mở miệng ngậm ngọc, đóng ngay cựa. Gà tài.
  84. Lưỡng thiệt: Gà này hoàn toàn không có lưỡi, chính là Linh Kê.
  85. Bạch Giáp: Chân Xanh, hoặc Đen, hay Xám, có 1 vảy nhỏ màu trắng đóng từ cựa đổ xuống. Gà này chính là Quý Kê.
  86. No Hậu: Hàng hậu từ gối không bị chia đôi,hay ba vảy. Xuống đến cựa vẫn to và rõ ràng. Gà này thắng trận bền bỉ, tám phần là gà hay.
  87. Kém Hậu: Hàng Hậu từ gối chia đôi,xuống chưa đến cựa đã nhỏ lăn tăn. Gà này không nên dùng.
  88. Thất Hậu: Hàng Hậu từ gối xuống chia 2 hàng hoặc không liền mạch. Gà này cũng không nên dùng.
  89. Phản Hậu: Hàng Hậu thường up lên, trái lại Phản Hậu úp xuống. Những Quý Kê mới có đường tài này.


THẾ ĐÁ


Điều cần biết là con gà chẳng bao giờ đá một chân, nó luôn luôn nhảy lên đá bằng hai chân, “ngón nghề” trong võ thuật gọi là “song phi”.
Lúc nhảy đá gà dùng sức mạnh, phụ giúp bằng đôi cánh và bộ lông đuôi.
Nạp, xạ: lúc mới xáp trận, còn dư sức, gà không cần nắm mỏ đầu để làm điểm tựa mà đá, chỉ từ xa nhảy lên, vừa đá vừa đâm, gọi là “nạp”, hoặc “xạ” hay “đòn buông”..
Đá lông: nó dùng mỏ nắm chặt bất cứ một chỗ nào làm điểm tựa rồi lấy sức nhảy đá, cánh quạt, cựa đâm, nắm lông mà đá.
Hồi mã thương: hai gà đang đánh nhau, bỗng có con “giả thua” bỏ chạy một vòng, địch thủ liền đuổi theo uy hiếp, không ngờ nó đứng lại, nghiêng qua, lấy thế thật nhanh thật mạnh, đá vào đầu vào cổ địch thủ, có khi nó trổ ngón nghề ấy hai, ba lần, và mỗi khi đá, đôi khi ta thấy nhồi liên tiếp ba bốn đòn, gọi là “hồi mã tam thương”.
Sỏ, mé: cắn mép môi, hay mồm rồi đá trúng mặt, trúng cổ, địch thủ đau vô cùng.
Đá vai: lấy mỏ cắn vai rồi đá thốc lên.
Đá lông yếm: chui đầu xuống gần bụng, nắm lông ngực đá thốc lên, còn gọi là “đá bưng tô”, nếu đòn này trúng, địch thủ sẽ lộn nhào có khi.
Lấn: dùng cần cổ lấn gà địch không cho đứng thăng bằng, thì làm sao địch trổ ngón được.
Vỉa tối: chui cổ vào cánh gà địch, ở luôn trong đó, cắn mổ da non như da nách, đùi non, kẹt cánh, nắm cho chắc mà đá lên, vừa đá vừa đâm, có khi trúng phổi, trúng hông, lợi hại vô cùng.
Vỉa sáng: chuyên luồn cổ vào cánh gà địch, thò đầu lên, bạ đân nắm đó, đá mạnh lên, đòn này sẽ gây cánh địch thủ, ưa bị xệ cánh và mất sức.
Khai vựa lúa: nắm mổ gà địch, dùng sức đá trúng cằm nó, chỗ ấy gọi là “chữ tử”, và gọi là “đá hầu”.
Đâm hang cua: dùng cựa đâm trúng “hang cua”, ở trên ngựa cạnh dưới cổ, nếu đâm sâu, gã giãy chết trào máu miệng tại chỗ.
Nước nạp: lúc đầu mới vào đá, hai gà nhảy lên, bốn chân đọ mạnh vào nhau, nếu đôi cựa chạm nhau gọi là “khắc cựa”.
Nước đứng: nước chịu đứng bền bỉ của gà, càng lâu càng đứng vững để chống trả.
Đi trên: khi đá gà chỉ nhắm vào phần trên địch thủ mà đá vào mỏ, đầu, cổ, ngực, lưng.
Chạy dưới: chỉ thích chui lòn dưới bụng, đội ngược lên, thừa cơ cắn đùi, ngực, bụng, để đấm đá.
Đòn đấm: cắn mổ đầu và nắm mồng lại giáng mạnh hai chân vào mặt, hầu, cổ, ngực v.v..của địch thủ.
Đá ngang: mổ đầu địch thủ, và đứng ngang một bên, đá vào cần cổ, vào mặt.
Quăng: đang đá, gà nhảy cao “quăng” đôi chân vào mặt địch thủ, có khi mạnh quá mình cùng xoay theo.
Liên cước: mổ một lần, đá hai, ba cái liên tiếp.
Độc cước: mổ một lần, đá một cái đích đáng.
Đá mã kỵ: đá trúng mu lưng địch thủ.
Thọc huyết: nhảy thật cao, khi mình gà rơi gần địch thủ, nó mới tung chân đá thọc vào ngực.
Đâm mắt cần: cần cổ gà có từng đốt ráp lại như mắt tre, nếu bị đâm trúng những “mắt” ấy, gà quẹo xương cổ, đứng quay mòng mòng.



Xem gà đá theo màu mắt



Mắt gà rất khó xét đoán vì là cửa sổ của tâm hồn. Thường mắt to, mắt trơ là gà vô cảm, bất tài. Mắt mọng nước như trái nhãn bóc vỏ là gà uỷ mỵ, thiếu ý chí sắt đá khi xung trận. Mắt lầm cát là gan lì, không chịu khuất phục. Nếu đưa tay ta vào gần thấy mắt gà thu nhỏ, con ngươi bé tí ti như một chấm sáng ấy là gà thông minh, nhiều mưu lược,có đòn tập hậu hay tạt ngang bất ngờ. Dẫu sao nhìn vào mắt gà còn tuỳ thuộc vào sự giao cảm với người mà suy đoán những yếu tố hư tĩnh vô vi trong con ngươi, vành mắt của gà. Người có tâm càng sáng, đức càng cao, càng dễ giao cảm với loài vật.

*Phép xem mạng gà dựa vào màu mắt được phát triển và áp dụng trên gà nòi, gà cựa miền Nam (chủ yếu đá cựa sắt). Xem mạng chủ yếu để cáp đá, việc tuyển lựa gà hay vẫn theo những cách thức thông thường, chẳng hạn như nòi giống hay xem tướng "nhất thủ, nhị vĩ, tam thân, tứ túc"...

*Mức độ quan trọng (quyết định thành bại): màu mắt 70%; màu chân & màu lông 20%; các yếu tố khác như ngày, giờ và vảy chỉ chiếm 10%. Hầu hết vảy gà đều áp dụng vào “nước khuya”, “mạnh đòn” vốn không có nhiều tác dụng đối với gà cựa (đá cựa sắt) vì ăn thua xảy ra trong chớp mắt!

*Cấu tạo mắt gà từ trong ra ngoài: con ngươi, viền màu (xung quanh con ngươi) và nền màu vàng ở ngoài cùng; đôi khi có thêm áng mây.



 

*Mạng gà được xác định dựa vào viền màu xung quanh con ngươi. Về cơ bản có các màu sau đây: viền vàng, gạch=mạng thổ, viền đen=mạng thủy, viền trắng=mạng kim và viền xanh=mạng mộc; viền đỏ=mạng hỏa không tồn tại trên thực tế.

*Áp dụng ngũ hành tương sinh & tương khắc:



 
Gà “trắng” ăn gà “đen” & gà “xanh”, thua gà “vàng”
Gà “xanh” ăn gà “vàng” & gà “đen”, thua gà “trắng”
Gà “đen” ăn gà “xanh”, thua gà “trắng” và gà “vàng”
Gà “vàng” ăn gà “trắng” & gà “đen”, thua gà “xanh”

*Lưu ý: theo phép xem mạng màu mắt thì “sinh xuất” ăn “sinh nhập”! Chẳng hạn, “kim sinh thủy” --> kim ăn thủy (gà “trắng” ăn gà “đen”) (theo lý luận thông thường thì “sinh xuất” bị mất lực nên thua “sinh nhập” được bổ lực).
 

Giác quan bất lộ.
Con mắt là nơi biểu lộ tính khí của con gà nhiều nhất. Nó gan lì, hung hăng và tài ba là dường nào, cũng đều nhận thấy từ nơi con mắt.
Tiền khởi nhìn con mắt phải sâu, đừng sâu hoắm khiến con gà chậm chạp. Mắt bằng ngang, không sâu chẳng lồi, gà ấy có bản tánh hiền lành, nhát đòn. Nếu mắt lồi, không tốt, dễ đuối, nhát. Mắt gà tốt thường có viền đen chung quanh mí, tròn và con ngươi phải tròn như hạt trai, con ngươi đen, thật tròn, nhỏ mới linh động, thế mới đúng câu “giác tâm nhị tiểu” của Lê Văn Duyệt. Trong mắt có nhiều màu sắc khác nhau.


NHỮNG MÀU MẮT NÊN CHƠI.
-    Trắng dã: tính khí lỳ lợm, gan dạ, đòn độc.
-    Trắng ngà: cũng tốt nhưng kém hơn màu trắng dã.
-    Bạc: lanh lẹ, linh động.
-    Vàng thau: hung hăng, dữ tợn, lỳ lợm.
-    Vàng đất đốm đen: gọi là mắt rắn hổ, nếu mí mắt bằng ngang, gọi chung là “mắt ếch” (mí mắt không cong theo vòng tròn của mắt).
-    Mắt ếch: màu nâu có đốm đen hoặc nâu huyền, gà lỳ lợm.
-    Mắt sao: tựa như mắt bạc và xám.
-    Mắt hạt cau: mắt trắng, hoặc đỏ hay xám hoặc vàng, có tủa ra chỉ hồng, dữ dằn.
-    Mắt lửa: mắt màu đỏ tía như lửa, gan dạ, hung hăng.
-    Mắt xanh: có màu xanh nhạt, nhìn xa tựa như mắt trắng, gà có tài.

NHỮNG MÀU MẮT CHẲNG NÊN CHƠI
-    Mắt đen thui: còn gọi là “mắt cá lóc”, nhát, dễ chạy bậy.
-    Mắt đỏ nhạt: nếu hơi lồi thì gọi là “mắt ốc cao”.
-    Mắt vàng: yếu.
-    Mắt xám: thường.
+ Nếu là loại nhạn, chuối, ô bông, bông nhạn, bướm, xám gạch, ngũ sắc, xám tro, mà có những màu mắt kể trên thì khôn, xứng tướng.
+ Nếu mà có đôi chân trắng (những màu mắt kể trên) sẽ không tốt. Ngoại trừ mắt hạt cau dung được.
Nếu là loại: điều, ó, ô, xám, khét, ngũ sắc, ô điều, và có những màu sắc trên chơi mới quý.
-    Cặp mắt trắng, đôi chân trắng, cái mỏ trắng, nếu là: ô, ô điều, điều xám, đều là gà tốt.
-    Gà có chân xanh mắt bạc, vàng thau, tốt.
-    Gà ô chân xanh hoặc đen, nên có những mắt trắng hoặc những màu nên chơi.
( chung quy chỉ nên dung những màu mắt kể trên).
Nếu gà có mỗi mắt một màu khác nhau, gà này tuy khá nhưng không nên chơi, vì nó kém bền, không đúng cách, thuận một bên, dễ mù.
Còn gà có hai màu, nhợt nhạt ở một bên mắt, gà ấy yếu, bở sức, đòn thường.
Loại gà “đổi màu” theo cảnh vật xung quanh, gà này có tài, nhưng nhát gan (lúc màu này lúc màu nọ).
-    Độc long là gà từ trứng sinh ra chỉ có một mắt (quí tướng) thuộc loại gà hay.
-    Bổ túc cho mắt, mí mắt phải mỏng, để mở ra khép lại dễ dàng, dễ cảm kích hơn.


*Đa phần gà đá ngoài trường đều mạng mộc (70-80%), mạng kim (5-10%), mạng thổ (5-10%), mạng thủy (5%). Các sách tướng gà thường cho gà mắt đen (mạng thủy) là yếu, nhát; có lẽ vì vậy mà người ta ít mang gà đi đá. Bởi mạng thổ chiếm đa số nên đem gà mạng kim đi đá dễ ăn độ. Mạng thổ để dành đá với gà dữ ngoài trường (thường là mạng kim). Giả sử có con gà mạng hỏa thì nó sẽ hốt xác hết những con gà dữ mạng kim & mạng mộc ngoài trường!

*Ngoài viền mắt, một đặc điểm quan trọng nữa của phép xem mạng này là nặng tính thực tiễn. Mạng thổ và mạng thủy dễ đoán, trong khi mạng kim và mạng mộc khó đoán hơn; nếu viền trắng tinh thì có thể mạnh dạn đoán là “mạng kim” nhưng đa phần đều phớt xanh, khó đoán, người ta gọi nôm na là “xanh lên trắng”. Phải đem đá thử mới biết chắc; chẳng hạn đá với gà “xanh” nếu thắng gọn trong một, hai chân thì đó là gà “trắng”, nếu đá dằng dai thì cùng là mạng mộc, gà “xanh”.

*Có nhiều con gà “mạng ẩn” tức màu mạng không thể hiện ra ngoài, chẳng hạn viền mắt xanh hoặc thậm chí vàng nhưng lại là mạng kim. Cách tốt nhất vẫn là đem đá thử độ nhỏ trong xóm; một khi biết chắc mạng gà rồi thì mới đá độ lớn.

*Một số đặc điểm hỗ trợ việc đoán mạng:
>> Mạng kim thường có đuôi lau (lông đuôi trắng như bông lau).
>> Gà chân vàng với những bớt đen ở chân (không phải móng đen hay cựa đen) thì hầu như là mạng kim.
>> Gà chân trắng với những bớt xanh ở chân thì hầu như là mạng mộc.
>> Gà chân xanh và không có đuôi lau thì chắc chắn không phải mạng kim.

*Trường hợp gà cùng mạng thì lúc đó phải xem đến màu chân. Màu chân cũng tuân theo ngũ hành sinh khắc (liệt kê ở trên). Chẳng hạn, hai con gà mắt trắng thì con chân vàng sẽ ăn con chân trắng, nhưng khá chật vật vì dù sao cũng là anh em, chỉ trên cơ chút đỉnh. Nếu cùng màu chân thì sau cùng mới xem đến màu lông. Ngày, giờ và vảy không quan trọng đối với gà cựa.

*Đoán màu lông:
>>Nếu con gà màu vàng hoặc khét thì dù lông cánh thế nào cũng là gà vàng hoặc khét.
>>Nếu màu ô hoặc điều thì nếu cuối lông cánh nó màu đỏ thì là điều, còn nếu màu đen thì là ô.
>>Gà điều chân xanh thì thành gà xanh và thuộc hành mộc như là gà xám nhưng dưới cơ gà xám.
>>Gà xám bông trên cơ gà xám tuyền nhưng chỉ trên cơ chút đỉnh vì cơ bản nó vẫn là gà xám (ví dụ như gà vàng hay khét bông cũng đừng nên đụng gà xám vì về cơ bản chúng vẫn là vàng và khét). 


*Mắt vàng nhạt pha trắng, xung quanh lòng đen có viền xanh, đuôi lau ẩn, gà ăn độ --> 95% mạng kim.


*Nhiều khả năng là mạng mộc.


*Mắt đen --> mạng thủy.


*Mắt vàng gạch --> mạng thổ

  


   Mắt ếch.   
Mắt ếch
nếu gà nòi có mắt lớn thì không thích hợp cho các trận đá nhưng gà có mắt lồi như mắt ếch thì lại khác. Gà mắt ếch có đặc điểm lanh lợi và linh động khi ra trận. Nếu gà nòi mắt ếch mà có màu chân xanh thì được xem là hợp cách rất qúy. Các tay chơi gà thường truyền tụng câu ca dao:

“Chân xanh mắt ếch đánh chết không chạy”

Mời coi thêm