“Lưỡng túc tam phân”
Cẳng gà còn gọi là “quản gà”, “cán gà”.
Đôi “cán gà” hay thì phải ngắn và nhỏ, đùi và cán tính chung là ba phần, thì cán chỉ chiếm có một, thế mới tốt.
+ Quản được thắt eo ở giữa, eo nhiều tốt, nhìn đối diện, đấy gọi là “chân loa kèn”.
Toàn thể cặp cán chỉ thấy gân và xương mới tốt, không nên thịt bủng beo, bốn móng của gà thì ngón phải dài thật dài và phân chia từng mắt rõ ràng, nhìn ngón cho thanh, đừng mập tròn, ấy là những đôi chân của thiên tài cả.
+ Đôi cẳng có nhiều màu khác nhau:
Trắng, vàng (nghệ thúi), trắng ngà, đen, xanh thẫm lá cây, xanh da trời, chì đốm, đốm trắng xanh, đốm trắng đen, vàng đốm. Nhưng chỉ có cặp chân trắng và chân xanh trội hơn cả, “xanh lá cây”, những dòng này nổi tiếng dữ tợn, đã chân xanh, thường có đôi mắt ếch (màu nâu), rất lỳ lợm, gan dạ có thừa. Dân gian có câu ví: “chân xanh mắt ếch đá chết không chạy”.
Nếu chân trắng thường đi đôi với mắt trắng, tài ba có thừa.
+ Cẳng gà hình dáng khác nhau:
- Cẳng vuông – cạnh thước
- Cẳng tròn – khô
- Cẳng khô như cẳng gà chết, nhám xàm, thứ chân này quý lắm, vảy thường ôm sát, đá rất đau, tưởng không nên lầm với thứ chân ghẻ, sần sùi tróc vảy bở tơi.
Thứ cẳng vuông, tốt, đá đau, nhưng không bằng chân khô đét nói trên.
Cẳng tròn, muốn tốt thì lại phải nhỏ mới hay, thêm eo giữa, không thấy khô gọi là cẳng thường, không tốt.
+ Gà đòn rặt đôi cẳng đương nhiên lớn to hơn gà rựa rặt. Sự to và nhỏ, ta phải lấy đó mà cân lường cho đúng.
+ Gà cẳng quá to, sẽ sinh chậm chạp, đá không ngay đòn.
+ Đôi cẳng, một cẳng đen một cẳng trắng, hoặc một xanh một vàng gọi là gà “thư hùng nhật nguyệt” ấy là gà hay rất hiếm.
“Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân thì chơi chi giống đó”
Chân gà nòi thường có hai hàng vảy với đường đất chạy hình chữ chi ở giữa hai hàng vảy. Gà nòi với ba hay bốn hàng vảy thường rất hiếm. Có sách ghi rằng gà ba hàng vảy tuy đá nhanh đòn nhưng đòn không mạnh.
Trong khoảng hơn ba thập niên qua, các tay chơi gà ở miền Nam thường không thích gà nòi có chân màu vàng, lý do là màu chân vàng là màu của gà thịt, một lọai gà Tàu hay gà Bắc Thảo nuôi để lấy thịt. Ngày nay lọai gà chân vàng tuy chưa được ưa chuộng một cách rộng rãi nhưng cũng đã được dần dà chấp nhận trong giới mộ điệu chơi gà.
.
Chân xanh lợt |
#1. Chân trắng |
#2. Chân trắng |
#3.Chân trắng |
|
#4. Chân trắng |
#5.Chân trắng |
#6.Chân đen |
#7.Chân xanh |
|
#8.Chân xanh |
#10.Chân vàng |
#11.Chân vàng |
||
#12.Chân vàng |
#13.Chân trắng ngà |
#14.Chân trắng ngà |
#15.Chân trắng ngà |
|
#16.Chân xám |
#17.Chân xanh lá |
#18.Chân xanh lá |
#19.Chân xanh lá |
|
#20.Chân xanh lá |
#21.Chân xanh lá |
#22Chân xanh lá |
||
* Mỏ to thẳng, miệng rộng, đầu mồng dâu, mắt chữ điền.
* Cổ to, dài, thẳng.
* Lưng rộng, cánh dài.
* Đùi to, phần đùi dài hơn phần cán.
* Chân thanh, ngón thắt, vảy mỏng - khô.
Tuy nhiên, như ông bà xưa thường nói "dị kỳ tướng tất hữu kỳ tài", cũng có trường hợp gà có dị tật nhưng có tài.
Về chọn màu lông, trong các loại màu ô, xám, tía, nhạn, cải, ó... thông thường có 3 màu lông phổ biến: ô, tía, xám. Gà màu ô phải là ô ướt hoặc ô toàn sắc; gà tía phải là tía mật ngã màu đen; gà xám phải là xám khô, vì vậy dân gian mới có câu rằng: "Nhứt điều ô, nhì xám khô, ba ô ướt".
Nếu như chọn gà xám, không nên chọn gà chân trắng, vì gà xám chân trắng sức không bền, dễ thua, ngược lại gà tía chân trắng thì hay, bén đòn nên có những câu:
Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua.
Gà trắng chân chì mua chi giống ấy.
Nếu chọn được tía ngũ sắc (năm màu lông) chân trắng, thì khó có gà nào địch nổi, trừ thần kê. Chỉ giống gà ô mới có thần kê, vậy mới có câu:
Gà ô chân trắng mỏ ngà, đá đâu thắng đấy gọi là thần kê.
Lục đinh: Gà 6 cựa.
1 cựa trắng, 1 cửa đen hoặc gà ô chân trắng cựa đen hoặc ô chân vàng, cựa đen, mỏ đen.
Móng rồng: Đôi ngón nội cong vào giữa, còn gọi là “bán nguyệt nội”, nếu được vảy xếp nhô lên, cạnh sắc bén từ ngón đến quản thì càng tốt, gọi là “vảy rồng”
Gà cò : Gà ngủ đứng bằng 1 chân
Sơ lược về chân gà
Chân gà có 4 ngón:Ngón giữa:Dài nhất,gọi là ngón ngọ
Ngón ngoài cùng gọi là ngón ngoại
Ngón trong cùng gọi là ngón nội
Ngón nhỏ,ngắn gọi là ngón thới
Ngón ngọ có 18_19 vảy: gà thường
Ngón ngọ có 20_21 vảy:gà tạm
Ngón ngọ có 22 vảy trở lên: gà tốt
DANH XƯNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VẢY GÀ
21. Đại Giáp : Trên hàng Quách có 3 vảy dính lại tạo thành một vảy lớn,đóng gần cựa là tốt nhất Gà này có nhiều thế, đâm đòn hiểm độc. Nếu Đại Giáp mà có mở miệng ngậm một vảy nhỏ gọi là Đại Giáp Ngữ Ngọc, gà này tài cao hiếm thấy, sử dụng cựa nhanh như tên bắn.
41. Độ điền mới quý làm sao,Hẳn là vua cả trên cao lộng hành. Mộng Lang truy cứu nhức cả đầu nhưng cũng không tìm ra được vảy "Ðộ Ðiền". Có lẽ là vảy độ có hình vuông như chữ Ðiền chăng ?
42. Thần Ðiểu :Đến lần biên độc làm anh, Ðộc biên là một hàng vảy biên chạy từ đầu gối xuống quá chậu ra ngón ngoại. Thần Ðiểu có vảy độc biên thì đá chết địch thủ, khó có con nào thoát chết.
62. Giao Long: Vảy này đóng từ hàng thứ hai hoặc ba trở xuống.Một vảy của hàng Quách,dài ngang,lấn qua hàng Thành.Đuôi ở hàng Thành,đầu hàng Quách. Gà có Giao Long hay chui lòn,cắn gối,cắn đùi,đá vỉa,đá mé.
63. Sát Cang Điểm: Ngón giữa có hai vảy sát nhau,cùng có hai điểm đốm. Gà này có ưu thế là hay đá đùi,đá vai,đá lưng…
64. Nhân Tự Trung Tiết: Hai vảy đóng như hình chữ Nhân tại khoảng giữa ngón ngọ. Gà này thường không may độ.
65. Tứ Trực: Một chân có vảy Án Thiên,chân kia có vảy Phủ Địa. Vảy này thuộc Quý Kê.
66. Hổ Trảo: Vảy gà có điểm đốm xanh,đen,hoặc đỏ gọi là Hổ Trảo. Gà này đá chắc đòn,nhiều thế hiểm ác.
67. Vấn Án Hoành Khai: Nó có hình của vảy Phủ Địa hay Án Thiên,nhưng chính giữa có một đường lõm xuống,chia đôi vảy. Gà này đá đòn ngang hiểm hóc,hay chém hay tạc.
68. Song Phủ Đao: Hai vảy của hàng Quách đóng ngay cựa,sát nhau,cùng có 2 đầu nhọn chỉ thẳng vào cựa. Gà này nhạy cựa,khôn lanh,trả đòn tức thì.
69. Tam Vinh: Chân gà minh bạch,sạch sẽ.Hành độ,hàng kẽm phải đúng cách ,hàng biên phải liên tục,hàng hậu xuống quá cựa. Gà này là Linh kê.
70. Tứ Trụ Giáp: Một chân có 2 Án Thiên,một chân có 2 Phủ Địa. Gà này đâm nhiều chém dữ, lấy tấn công làm phòng thủ.
71. Nội Ngoại Hợp Công: Hai hàng Thành,Quách rõ ràng,phân minh,sạch sẽ. Tốt.
72. Thượng Hạ Giao Chinh: Một Chân có 3 Quấn Cán, chân kia có 3 điểm Đen hoặc Đỏ. Gà này rất tài nghệ trong từng thế võ,thế nào cũng hung ác.
73. Văn Võ Song Toàn: Một chân có 3 hàng vảy ở mặt tiền, chân kia có 2 hàng trơn. Gà này hay đá thế hiểm,biết lợi dụng thời cơ và sơ hở của đối phương để tung đòn hiểm ác,giết chết đối thủ trong nháy mắt.
74. Tiền Phú Hậu Bần: Chân gà từ cựa đổ lên vảy đóng chặt,rõ ràng phân minh. Từ cựa đổ xuống đóng rời rạc,không liền mí. Gà này đá càng lâu thì càng yếu sức,không tốt.
75. Tam Tài: Mặt tiền chân gà tính từ sát gối xuống đến vảy thứ 3, có 3 hàng vảy liên tiếp nhau.Gà có Tam Tài là Quý Kê, đòn tài mãnh liệt, đá đồng chạng dễ thắng.
76. Bàng Khai: Tại hàng Thành hoặc Quách có 1 vảy nứt ra. Tốt.
77. Hoàng Thành Chỉ Địa: Hàng Quách có vảy hơi lớn và xéo,chỉ xuống cựa . Chân gà này tốt,đá nhanh,đòn khéo léo.
78. Áp Khẩu: Hàng Thới có một hàng vảy đi lên thì bỗng chia đôi thành 2 vảy nhỏ: Xấu, đường Hoa Đăng không sáng.
79. Tứ Quý: Giống như Tam Tài,nhưng có 4 vảy từ gối xuống. Gà này rất tốt đường Sinh Đạo.
80. Bán Nguyệt Nội< Tốt> : Đôi ngón nội cùng cong cong hình bán nguyệt,chỉ vào lòng. Gà này rất hay,rất tài, tung cước giỏi, lúc đứng thường 2 ngón nội chạm nhau, còn gọi là móng rồng
81. Song Liên Tự : Hai chân đều có liên giáp nội đóng ngang cựa,cùng mở miệng ngậm ngọc, đường thới hoa đăng tốt. Gà này có đòn tài,thế hiểm.
82. Ngũ Quỷ : Một chân có 3 hàng vảy liên tiếp nhau,đóng từ gối đổ xuống đến vảy thứ 5. Gà này hung ác vô cùng,khó có đối thủ cân sức.
83. Độc Giác: Hai chân đều có 2 vảy to,cùng mở miệng ngậm ngọc, đóng ngay cựa. Gà tài.
84. Lưỡng thiệt: Gà này hoàn toàn không có lưỡi, chính là Linh Kê.
85. Bạch Giáp: Chân Xanh, hoặc Đen, hay Xám, có 1 vảy nhỏ màu trắng đóng từ cựa đổ xuống. Gà này chính là Quý Kê.
86. No Hậu: Hàng hậu từ gối không bị chia đôi,hay ba vảy. Xuống đến cựa vẫn to và rõ ràng. Gà này thắng trận bền bỉ, tám phần là gà hay.
87. Kém Hậu: Hàng Hậu từ gối chia đôi,xuống chưa đến cựa đã nhỏ lăn tăn. Gà này không nên dùng.
88. Thất Hậu: Hàng Hậu từ gối xuống chia 2 hàng hoặc không liền mạch. Gà này cũng không nên dùng.
89. Phản Hậu: Hàng Hậu thường up lên, trái lại Phản Hậu úp xuống. Những Quý Kê mới có đường tài này.
THẾ ĐÁ
Lúc nhảy đá gà dùng sức mạnh, phụ giúp bằng đôi cánh và bộ lông đuôi.
Nạp, xạ: lúc mới xáp trận, còn dư sức, gà không cần nắm mỏ đầu để làm điểm tựa mà đá, chỉ từ xa nhảy lên, vừa đá vừa đâm, gọi là “nạp”, hoặc “xạ” hay “đòn buông”..
Đá lông: nó dùng mỏ nắm chặt bất cứ một chỗ nào làm điểm tựa rồi lấy sức nhảy đá, cánh quạt, cựa đâm, nắm lông mà đá.
Hồi mã thương: hai gà đang đánh nhau, bỗng có con “giả thua” bỏ chạy một vòng, địch thủ liền đuổi theo uy hiếp, không ngờ nó đứng lại, nghiêng qua, lấy thế thật nhanh thật mạnh, đá vào đầu vào cổ địch thủ, có khi nó trổ ngón nghề ấy hai, ba lần, và mỗi khi đá, đôi khi ta thấy nhồi liên tiếp ba bốn đòn, gọi là “hồi mã tam thương”.
Sỏ, mé: cắn mép môi, hay mồm rồi đá trúng mặt, trúng cổ, địch thủ đau vô cùng.
Đá vai: lấy mỏ cắn vai rồi đá thốc lên.
Đá lông yếm: chui đầu xuống gần bụng, nắm lông ngực đá thốc lên, còn gọi là “đá bưng tô”, nếu đòn này trúng, địch thủ sẽ lộn nhào có khi.
Lấn: dùng cần cổ lấn gà địch không cho đứng thăng bằng, thì làm sao địch trổ ngón được.
Vỉa tối: chui cổ vào cánh gà địch, ở luôn trong đó, cắn mổ da non như da nách, đùi non, kẹt cánh, nắm cho chắc mà đá lên, vừa đá vừa đâm, có khi trúng phổi, trúng hông, lợi hại vô cùng.
Vỉa sáng: chuyên luồn cổ vào cánh gà địch, thò đầu lên, bạ đân nắm đó, đá mạnh lên, đòn này sẽ gây cánh địch thủ, ưa bị xệ cánh và mất sức.
Khai vựa lúa: nắm mổ gà địch, dùng sức đá trúng cằm nó, chỗ ấy gọi là “chữ tử”, và gọi là “đá hầu”.
Đâm hang cua: dùng cựa đâm trúng “hang cua”, ở trên ngựa cạnh dưới cổ, nếu đâm sâu, gã giãy chết trào máu miệng tại chỗ.
Nước nạp: lúc đầu mới vào đá, hai gà nhảy lên, bốn chân đọ mạnh vào nhau, nếu đôi cựa chạm nhau gọi là “khắc cựa”.
Nước đứng: nước chịu đứng bền bỉ của gà, càng lâu càng đứng vững để chống trả.
Đi trên: khi đá gà chỉ nhắm vào phần trên địch thủ mà đá vào mỏ, đầu, cổ, ngực, lưng.
Chạy dưới: chỉ thích chui lòn dưới bụng, đội ngược lên, thừa cơ cắn đùi, ngực, bụng, để đấm đá.
Đòn đấm: cắn mổ đầu và nắm mồng lại giáng mạnh hai chân vào mặt, hầu, cổ, ngực v.v..của địch thủ.
Đá ngang: mổ đầu địch thủ, và đứng ngang một bên, đá vào cần cổ, vào mặt.
Quăng: đang đá, gà nhảy cao “quăng” đôi chân vào mặt địch thủ, có khi mạnh quá mình cùng xoay theo.
Liên cước: mổ một lần, đá hai, ba cái liên tiếp.
Độc cước: mổ một lần, đá một cái đích đáng.
Đá mã kỵ: đá trúng mu lưng địch thủ.
Thọc huyết: nhảy thật cao, khi mình gà rơi gần địch thủ, nó mới tung chân đá thọc vào ngực.
Đâm mắt cần: cần cổ gà có từng đốt ráp lại như mắt tre, nếu bị đâm trúng những “mắt” ấy, gà quẹo xương cổ, đứng quay mòng mòng.