Cái tinh, cái tướng gà hiện rõ ở đôi chân. Đùi là thượng 
	túc. Cẳng là hạ túc. Thượng hạ đều nhau là tướng tầm thường. Hạ đoản, gà 
	nhanh nhẹn, biến hoá vô thường. Gối chùng, gà có sức bật cao, mạnh. Gối 
	thẳng, gà thường chậm, ít biến hoá. Kheo treo là tướng lạ, tướng quý khiến 
	đôi chân gà khi vào trận thực hư biến hoá không biết đâu mà lường. Chính 
	danh trên mặt vẩy, vô vi biến hoá trong phát hiện suy đoán là nguyên tắc cơ 
	bản của thuật xem tướng chân gà. Ống chân của gà có hai mặt âm- dương . Mặt 
	trước (mặt dương) vuông vức, có hai hàng vẩy to, hai bên mép là thành sắc 
	lạnh. Mặt sau (mặt âm) tròn, mềm. lấm tấm những vẩy nhỏ như hạt kê. Mặt âm 
	phải sáng bóng, nổi hạt và ấm nóng. Mặt dương  phải khô lạnh, phải biểu hiện 
	chính danh, nghĩa là phải có dấu hiệu của sự tôn quý thanh cao, hàm đủ: Nhân 
	- Trí - Hùng - Lược.
            Ở mặt dương của ống chân gà phía trên áp gối 
	là thiên, phía dưới áp bàn là địa. Hàng trên cùng vốn có hai vẩy, nếu chỉ có 
	một vẩy che kín là con gà của trời. Ở hàng một là đệ nhất án thiên, hàng hai 
	là đệ nhị án thiên, hàng ba là đệ tam án thiên. Sang đến hàng thứ tư lại trở 
	về gà tầm thường. Đạo dịch nói rồi, thịnh mãi sẽ suy vậy.Gà con của trời ra 
	đòn vũ bão hiên ngang như sấm gầm, chớp giật. Điểm nổi bật là gà không bao 
	giờ chịu khuất phục, cho dù thân thể bầm nát. Nhưng đã là gà con của trời 
	thường có thiên sứ mách bảo đòn hiểm để thoát nạn, giành chiến thắng bất 
	ngờ. Gà án thiên cũng giống con gà ô , không cắn gà con lại còn cho chúng ăn 
	và không đánh kẻ thù khi chúng chưa ra đòn đánh trước... Áp bàn mà chỉ có 
	một vẩy che kín gọi là tướng quỷ hay tướng phủ địa. Tướng này cho thấy gà có 
	nhiều đòn hiểm, đòn tập hậu, luồn cánh hay tạt chéo. Đòn gà biến hoá vần vũ 
	như thiên la địa võng, dễ dàng hạ gục kẻ thù hung hăng, hở miếng, lộ sườn.
	
	Cẳng gà 
	(Bí quyết chọn và nuôi gà đá)
	“Lưỡng túc tam phân”
	Cẳng gà còn gọi là “quản gà”, “cán gà”.
	Đôi “cán gà” hay thì phải ngắn và nhỏ, đùi và cán tính chung là ba phần, thì 
	cán chỉ chiếm có một, thế mới tốt.
	+ Quản được thắt eo ở giữa, eo nhiều tốt, nhìn đối diện, đấy gọi là “chân 
	loa kèn”.
	Toàn thể cặp cán chỉ thấy gân và xương mới tốt, không nên thịt bủng beo, bốn 
	móng của gà thì ngón phải dài thật dài và 
	phân chia từng mắt rõ ràng, nhìn ngón cho thanh, đừng mập tròn, ấy là những 
	đôi chân của thiên tài cả.
	+ Đôi cẳng có nhiều màu khác nhau:
	Trắng, vàng (nghệ thúi), trắng ngà, đen, xanh thẫm lá cây, xanh da trời, chì 
	đốm, đốm trắng xanh, đốm trắng đen, vàng đốm. Nhưng chỉ có cặp chân trắng và 
	chân xanh trội hơn cả, “xanh lá cây”, những dòng này nổi tiếng dữ tợn, đã 
	chân xanh, thường có đôi mắt ếch (màu nâu), rất lỳ lợm, gan dạ có thừa. Dân 
	gian có câu ví: “chân xanh mắt ếch đá chết không chạy”.
	Nếu chân trắng thường đi đôi với mắt trắng, tài ba có thừa.
	+ Cẳng gà hình dáng khác nhau:
	- Cẳng vuông – cạnh thước
	- Cẳng tròn – khô
	- Cẳng khô như cẳng gà chết, nhám xàm, thứ chân này quý lắm, vảy thường ôm 
	sát, đá rất đau, tưởng không nên lầm với thứ chân ghẻ, sần sùi tróc vảy bở 
	tơi.
	Thứ cẳng vuông, tốt, đá đau, nhưng không bằng chân khô đét nói trên.
	Cẳng tròn, muốn tốt thì lại phải nhỏ mới hay, thêm eo giữa, không thấy khô 
	gọi là cẳng thường, không tốt.
	+ Gà đòn rặt đôi cẳng đương nhiên lớn to hơn gà rựa rặt. Sự to và nhỏ, ta 
	phải lấy đó mà cân lường cho đúng.
	+ Gà cẳng quá to, sẽ sinh chậm chạp, đá không ngay đòn.
	+ Đôi cẳng, một cẳng đen một cẳng trắng, hoặc một xanh một vàng gọi là gà 
	“thư hùng nhật nguyệt” ấy là gà hay rất hiếm.
	“Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua
	Gà trắng chân thì chơi chi giống đó”
 
  
 
Chân và vảy 
Chân gà nòi thường có hai hàng vảy với đường đất chạy hình chữ chi ở giữa hai 
hàng vảy. Gà nòi với ba hay bốn hàng vảy thường rất hiếm. Có sách ghi rằng gà ba 
hàng vảy tuy đá nhanh đòn nhưng đòn không mạnh. 
Trong khoảng hơn ba thập niên qua, các tay chơi gà ở miền Nam thường không thích 
gà nòi có chân màu vàng, lý do là màu chân vàng là màu của gà thịt, một lọai gà 
Tàu hay gà Bắc Thảo nuôi để lấy thịt. Ngày nay lọai gà chân vàng tuy chưa được 
ưa chuộng một cách rộng rãi nhưng cũng đã được dần dà chấp nhận trong giới mộ 
điệu chơi gà. 
. 
	
		|  Chân xanh lợt |  #1. Chân trắng
 |  #2. Chân trắng
 |  #3.Chân trắng
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
		|  #4. Chân trắng
 |  #5.Chân trắng
 |  #6.Chân đen
 |  #7.Chân xanh
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
		|  #8.Chân xanh
 | #9.Chân xanh |  #10.Chân vàng
 
 |  #11.Chân vàng
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
		|  #12.Chân vàng
 |  #13.Chân trắng ngà
 |  #14.Chân trắng ngà
 |  #15.Chân trắng ngà
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
		|  #16.Chân xám
 |  #17.Chân xanh lá
 |  #18.Chân xanh lá
 |  #19.Chân xanh lá
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
		|  #20.Chân xanh lá
 |  #21.Chân xanh lá
 |  #22Chân xanh lá
 
 | 
 | 
		| 
 | 
 | 
 | 
 | 
	
Chọn gà tài 
	trước tiên là xem hình dáng, tướng mạo, xét kỹ 5 bộ phận trên mình gà, gọi 
	là ngũ thường.
    * Mỏ to thẳng, miệng rộng, đầu mồng dâu, mắt chữ điền.
    * Cổ to, dài, thẳng.
    * Lưng rộng, cánh dài.
    * Đùi to, phần đùi dài hơn phần cán.
    * Chân thanh, ngón thắt, vảy mỏng - khô.
    Tuy nhiên, như ông bà xưa thường nói "dị kỳ tướng tất
 hữu kỳ tài", cũng có trường hợp gà có dị tật nhưng có tài.
    Về chọn màu lông, trong các loại màu ô, xám, tía, 
nhạn, cải, ó... thông thường có 3 màu lông phổ biến: ô, tía, xám. Gà màu
 ô phải là ô ướt hoặc ô toàn sắc; gà tía phải là tía mật ngã màu đen; gà
 xám phải là xám khô, vì vậy dân gian mới có câu rằng: "Nhứt điều ô, nhì
 xám khô, ba ô ướt".
	
    
	Nếu như chọn gà xám, không nên chọn gà chân trắng, vì
 gà xám chân trắng sức không bền, dễ thua, ngược lại gà tía chân trắng 
thì hay, bén đòn nên có những câu:
    Gà ô chân trắng mẹ mắng cũng mua.
    Gà trắng chân chì mua chi giống ấy.
    Nếu chọn được tía ngũ sắc (năm màu lông) chân trắng, 
thì khó có gà nào địch nổi, trừ thần kê. Chỉ giống gà ô mới có thần kê, 
vậy mới có câu:
    Gà ô chân trắng mỏ ngà, đá đâu thắng đấy gọi là thần kê.
   
Thư hùng kê: 1 chân trắng, 1 chân đen hay 1 chân vàng, 1 chân xanh ... Tóm lại 
là mỗi chân 1 màu khác nhau.
   Lục đinh: Gà 6 cựa.
  
1 cựa trắng, 1 cửa đen hoặc gà ô chân trắng cựa đen hoặc ô chân vàng, cựa đen, 
mỏ đen.
 
   
Móng rồng: Đôi ngón nội cong vào giữa, còn gọi là “bán nguyệt nội”, nếu được vảy 
xếp nhô lên, cạnh sắc bén từ ngón đến quản thì càng tốt, gọi là “vảy rồng”
Gà cò : Gà ngủ đứng bằng 1 chân
Sơ lược về chân gà
Chân gà có 4 ngón:
Ngón giữa:Dài nhất,gọi là ngón ngọ
Ngón ngoài cùng gọi là ngón ngoại
Ngón trong cùng gọi là ngón nội
Ngón nhỏ,ngắn gọi là ngón thới
Ngón ngọ có 18_19 vảy: gà thường
Ngón ngọ có 20_21 vảy:gà tạm
Ngón ngọ có 22 vảy trở lên: gà tốt
Mặt tiền chân gà có 2 hàng vảy,được gọi như sau:
Theo ngón giữa<ngọ> đi thẳng lên gối ,gọi là hàng Nội 
	hoặc hàng Quách.
Theo ngón ngoại đi thẳng lên gối,gọi là hàng Ngoại hoặc 
	hàng Thành
Theo ngón thới đi lên gọi là hàng Thới
Mặt sau có một hàng vảy lớn,gọi là hàng Hậu
Từ cựa lên đến gối,gọi là hàng Độ
Giữa hàng Hậu và hàng Độ có một hàng vảy từ cựa lên 
	gối,gọi là hàng Kẽm <mặt trong>
Giữa hàng Ngoại và hàng Hậu có một hàng vảy nhỏ lăn 
	tăn,dài từ gối xuống,gọi là hàng Biên.
 
 DANH XƯNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VẢY GÀ
 1. Án Thiên: Tức một vảy lớn nằm sát 
	đầu gối trên cao nhất.Nếu cách gối một hàng thì gọi là Án Thiên 2, cách một 
	hàng nữa là Án Thiên 3. Gà có vảy này sức lực bền bỉ, tránh né tài tình, ra 
	đòn thường chính xác. Rất Tốt.
2.Phủ địa: Có hình dáng giống như Án 
	Thiên,nhưng được đặt dưới cựa,sát đầu bốn ngón chân. Gà có vảy này khi chinh 
	chiến rất tinh nhanh, cựa địch khó lòng xuyên thấu. Tốt.
3.Khai Tiền: Một vảy thuộc hàng Thành 
	nứt ra,bất luận trên hay dưới cựa đều không tốt. Gà này không nên dùng,vì 
	thời vàng son đã tận. Rất Xấu.
4.Vấn Cán: Hình dáng như Án Thiên và 
	Phủ Địa,nhưng được đặt ngoài nơi của Án Thiên và Phủ địa. Vảy này nếu trên 
	cựa thì không tốt, nếu vấn 3 vảy sát đầu gối thì tốt, từ bốn vảy tuyệt đối 
	không
nên dùng.
5. Tứ Hoành Khai: Dưới gối có 4 vảy 
	nhỏ, còn gọi là Đâu Đầu Nhịn Miệng< Xấu>. Sát gối có nhiều vảy nhỏ hoặc nằm 
	từng chùm không khít nhau gọi là Nát Gối hoặc Ngũ Tu<5 vảy nhỏ>. Gà có vảy 
	này kém tài,bở hơi,yếu sức ,hay bị mù mắt khi ra trận.
 6.Dậm Chậu <Xấu> : Một vảy nhỏ nằm 
	sát ngón trước< trước khi giáp ngón>.
 7. Rọc Chậu: Vảy ở sát chân ngón 
	bị cắt đứt< Xấu>
 8. Ngậm Thẻ: Hai hàng vảy đều, 
	bỗng nhiên có một vảy chen vào đường kẻ nhỏ,chia đôi ra. Gà này đá tứ 
	tung,vô đòn vô thế.
 9. Liên Giáp Ngoại: Hai vảy ở hàng 
	Thành dính nhau thành một vảy lớn, gà này không tốt. Nhưng nếu từ hàng thứ 4 
	từ gối xuống có vảy này thì dùng được,gọi là Kích Biên.
 10. Huyền Trâm: Còn gọi tên khác 
	là Trung Huyền, là một vảy nhỏ nằm giữa hàng Thành và Quách, được đặt ngay 
	và ngang với cựa. Vảy này có màu đen tuyền. Gà này đâm nhiều,chém dữ, thường 
	đâm hỏng mắt đối thủ từ chân có vảy này.
 11. Liên Giáp Nội:  
	Hai vảy ở hàng Quách dính lại thành một vảy to. Nếu sát ngay cựa có hình 
	giống miệng rồng gọi là Hàm Long, giống miệng cọp gọi là Hổ Khẩu. Nếu có 
	hình tròn gọi là Nhật Thần. Gà có vảy này cựa đâm đòn độc, vào yếu huyệt của 
	đối thủ.
 12. Gạc Thập: Bốn 
	vảy sát nhau, hai vảy hàng Thành,hai vảy hàng Quách , tạo nên ở giữa có hàng 
	chữ thập, đặt ngang hàng với cựa. Gà có gạc thập chân đâm cựa liên hoàn,rất 
	tốt.
 13.  Khai Vương: Bốn 
	vảy dính nhau,tạo thành hình chữ Vương, gà tốt.
 14. Ám Long : Còn 
	gọi là Ẩn Long hoặc Vảy Yến., vảy này được đặt ngay ngón giữa,trước khi đụng 
	ngón.
Nếu vảy đó màu Hồng càng tốt,gọi là Ẩn 
	Son. Gà này là “Linh Kê”.
 15. Khai Hậu: Một 
	trong những vảy Hậu bị nứt ra,vỡ đôi. Gà này không tốt. Ngoại trừ mặt tiền 
	có
vảy Vấn Cán thì vẫn dùng được.
 16. Trường Thành: hàng 
	Thành lấn sâu vào hàng Quách, rất tốt.
 17. Địa Giáp: Một 
	vảy nhỏ mọc giữa lòng bàn chân,vảy này luôn chạm đất.
Gà có vảy này là “Linh Kê”.
 18. Liên Châu: Vảy 
	của ngón nội đi thẳng lên quá cựa, nó sẽ nhập vào đường thới . Nếu thẳng, no 
	tròn từ trên xuống gọi là Liên Châu. Gà này có tài dùng cựa rất giỏi.
 19. Nhân Tự:  
	Hai hàng vảy nhập một tạo đường chỉ ra hình chữ Nhân, gọi là Giáp Long Nhân 
	Tự, là gà rất quý.
 20. Liên Móng : Những 
	vảy trên ngón dính đôi hoặc ba,cho biết cái chân ấy mạnh. Khi đá,gà dùng
21. Đại Giáp : Trên hàng Quách có 3 
	vảy dính lại tạo thành một vảy lớn,đóng gần cựa là tốt nhất Gà này có nhiều thế, đâm đòn hiểm độc. Nếu Đại Giáp 
		mà có mở miệng ngậm một vảy nhỏ gọi là Đại Giáp Ngữ Ngọc, gà này tài cao hiếm thấy, sử 
		dụng cựa nhanh như tên bắn.
 
 22. Trễ Giáp : Hai vảy ở hàng Quách 
		song song sát nhau,cùng đuôi chỉ xuống vào cựa. Gà có Trễ Giáp ra đòn rất nhanh, hay tạt hay quăng, 
		rất tốt.
 23. Giáp Cần Hiếm lắm < Quý Kê> : Một 
		vảy mọc trên cần cổ gà,được lông che kín, gà đứng nước cao, càng khuya càng trổ nhiều tài hiếm thấy.
 24. Mai Cựa < Tốt> : Mặt trước,phía 
		trong,tại hàng biên phụ sát cựa có 4,5 vảy dính chùm,hình tựa như hoa mai. Gà có hậu vận tốt.
 25. Thập Đao <Tốt> : còn gọi là 
		Thập Cựa, tại hàng biên phụ ,ngang với cựa có hình chữa thập nhỏ.
 26. Ác Hổ Báo <Tốt> : Móng của ngón 
		ngọ nổi lên môt chấm nhỏ màu Đen hoặc Xanh. Gà này có đòn ác độc, khó có địch thủ nào chịu nổi.
 27. Xiên Đao <Tốt> : Hình dáng như 
		vấn cán,nhưng ở đầu hàng Thành cao,đầu hàng Quách thấp hơn,chĩa xéo xiên vào cựa.  Nếu hàng Quách có 1 vảy 
		nhỏ,dài,chỉ vào cựa,cũng gọi là Xiên Đao.
 28. Hàm Rập <Tốt> : Hàng Thành và 
		hàng Quách vòng cung lên theo chiều ngang.
 29. Thư Hùng Kê <Quý> : Gà có đôi 
		chân Nhật Nguyệt, một chân trắng một chân đen, Hoặc một chân Vàng một chân Xanh. Gà này rất hiếm, văn võ song 
		toàn,khó có đối thủ.
 30. Mai Hồng < Tốt> : Chân gà có 3 
		màu rõ rệt, một nửa chân trở lên màu khác,một nửa trở xuống khác màu các biên nhỏ có một màu khác nữa.
 31. Tiểu Son < Tốt> : Giữa hàng 
		Thới và hàng Quách có những vảy nhỏ như tấm, nếu một trong các vảy nhỏ 
		ấy màu đỏ tuyền gọi là Tiêu Son hoặc Tấm Son. Gà này đá 
		đòn hiểm ác,gan lì, đá đồng sức thường dễ thắng.
 32. Độ Son <Tốt> : Hàng vảy độ nổi 
		lên những vảy no nê màu hồng gọi là Độ Son. Độ Son ở hàng thứ mấy thì độ đó rất dễ thắng.
 33. Hàng Trơn < Tốt> : Chân có 2 
		hàng vảy trơn tru sạch sẽ. Gà này lúc đá trổ nhiều đòn thế, nó nhờ kẽm 
		hậu tốt yểm trợ.
 34. Độc Biên <Quý> : Hàng Biên có 1 
		hàng thẳng từ trên xuống dưới,không đứt quãng. Gà tốt.
 35. Yến Võ <Tốt> : Hình thể như Ẩn 
		Long hay Ám Long,nhưng Yến Võ đóng tại mặt tiền cán trên bất kì vị trí nào thuộc hàng Quách.
 36. Lộc Điền Tự <Xấu> : Vảy hàng 
		Thành và Quách châu vào nhau,nhưng được ngăn bởi đường đất giữa hơi rộng.
 37. Lộc Điền Nội < Tốt>: Gần giống 
		như Lộc Điền Tự nhưng đường đất mũi quay vào trong, tỷ như hai tài sánh đôi. Đóng ngang cựa thì tốt,nếu không thì 
		thường.
 38. Lộc Điền Ngoại < Xấu>: Giống 
		như trên,nhưng đường đất mũi quay ra ngoài, gà này hữu dũng vô mưu.
 39. Ẩn Địa <Tốt> : Một vảy ẩn dưới 
		vảy Phủ Địa, còn gọi là Bản Phủ Kích Giáp.
 40. Hoành Không <Xấu>: Tựa như Vấn 
		Cán,quấn từ hàng Thành qua hàng Quách,cuối Quách nhỏ dần, nhưng không phải Xiên Đao. Nếu đóng từ hàng thứ 5 trở 
		xuống, thứ 4 trở lên thì được
 41. Độ điền mới quý làm sao,Hẳn là vua cả trên cao lộng hành. Mộng Lang truy cứu nhức cả đầu nhưng cũng không tìm ra được vảy "Ðộ Ðiền". 
 Có lẽ là vảy độ có hình vuông như chữ Ðiền chăng ?
 42. Thần Ðiểu :Đến lần biên độc làm anh, Ðộc biên là một hàng vảy biên chạy từ đầu gối xuống quá chậu ra ngón ngoại. Thần Ðiểu có vảy độc biên thì đá chết địch thủ, khó có con nào thoát chết.
 
43.Một chân có 2 vảy sát nhau cũng gọi là Song 
	Cúc.
	
44. Xuyên Thành Giáp : Dưới cựa có 
		2 liên giáp ngoại, đồng thời có theo 2 vấn cán . Rất tốt.
 45. Nhất Đầu Hổ : Ngón giữa,vảy gần 
		móng có điểm lốm đốm nhỏ. Gà này khi nếm đón mới trả đòn, nhưng sức bền, 
		đòn mạnh như vũ bão.
 46. Bạch Đầu Hổ : Toàn thể 3 móng 
		chân đen tuyền,ngoại trừ ngón giữa có móng trắng, hai chân đều như vậy, 
		đó là gà tài.
 47. Hắc Hổ Thới: Toàn thể 3 móng 
		chân trước màu trắng, ngoại trừ ngón thới có móng đen. Gà này có đòn thế 
		sáng sủa, đòn nào ra đòn ấy.
 48. Trung Cang Điểm : Ngón giữa cứ 
		cách 2 vảy lại có một đốm, gà này đá hay nước khuya, càng lâu càng giỏi.
 49. Liệt Bái : Có đốm nhỏ ngoài đầu 
		vảy,rất nhỏ, trên ngón giữa. Gà này có uy thế khiến địch sợ hãi mà chạy 
		ngay trong lúc giao đấu, đôi khi chuyển bại thành thắng.
 50. Lạc Diệp : Gần vảy Liệt Bái có 
		một vảy nhỏ dặm thêm trên ngón giữa . Gà này có nhiều đòn tài dễ hạ địch 
		ngay trong hiệp đầu.
 51. Diệp Báo : Ngón giữa, ở đốt 
		giữa có vảy lớn  có đốm nhỏ trên vảy.  Gà này có đòn hiểm, khi đã ra đòn 
		thì địch phải thua chạy.
 52. Thập Hậu : Tại hàng hậu và hàng 
		kẽm  có 4 vảy sát nhau tạo thành hình chữ thập. Gà có quý tướng.
 53. Thập Độ: Tại hàng độ và hàng 
		kẽm có 4 vảy sát nhau tạo thành hình chữ thập. Gà giỏi, đánh đồng chạng 
		dễ thắng.
 54. Liên Kẽm:  Hai vảy thuộc hàng 
		kẽm dính nhau như liên giáp, báo hiệu chân ấy bảo vệ mạng gà. Chân đó có 
		nhiều tài, vừa đánh vừa thủ.
 55. Khẩu Đao : Những vảy ở đường 
		thới đi lên ,nếu đến cựa có một vảy hình chữ Khẩu  gọi là Khẩu Đao. Cựa 
		ấy sử dụng rất độc. Khẩu Đao còn tên gọi khác là Ngọc Đao.
 56. Giáp Thới Phòng Đao : Hàng vảy 
		ngón thới đi đều lên quá cựa,và cong vào ôm lấy cựa. Gà này là Kỳ Tài, 
		có thể hạ đối thủ trong nháy mắt.
 57. Phiến Hậu : Vảy hậu mỏng và 
		phắng, rất tốt.
 58. Long Biên: Gà có một đường biên 
		sát hàng Thành to rõ rệt, kèm theo đó vẫn có những đường biên thường nằm 
		cạnh. Gà này mạnh đòn quăng giỏi.
 59. Nhật Thới: Những vảy ngón 
		thới,đếm từ móng vào khoảng 2 vảy thì có một vảy to hơn,hình chữ nhật. 
		Gà này tinh nhanh, biết sử dụng thới vào yếu điểm của địch.
 60. Giáp Long Thới : Vảy thới gần 
		móng có vảy hình tựa cánh bướm. Gà này dùng thới mãnh liệt, chuyên phá 
		mặt địch bằng thới.
61. Song Long Tự: tại hành Thành và hàng 
Quách,hai hàng vảy xếp lên nhau và cùng cong xuống qua hai bên như hai hình bán 
nguyệt. Đây là chân gà quý,biết dùng cựa.
 
62. Giao Long: Vảy này đóng từ hàng thứ hai hoặc ba trở 
xuống.Một vảy của hàng Quách,dài ngang,lấn qua hàng Thành.Đuôi ở hàng Thành,đầu 
hàng Quách. Gà có Giao Long hay chui lòn,cắn gối,cắn đùi,đá vỉa,đá mé.
 
63. Sát Cang Điểm: Ngón giữa có hai vảy sát nhau,cùng có hai 
điểm đốm. Gà này có ưu thế là hay đá đùi,đá vai,đá lưng…
 
64. Nhân Tự Trung Tiết: Hai vảy đóng như hình chữ Nhân tại 
khoảng giữa ngón ngọ. Gà này thường không may độ.
 
65. Tứ Trực: Một chân có vảy Án Thiên,chân kia có vảy Phủ Địa. 
Vảy này thuộc Quý Kê.
 
66. Hổ Trảo: Vảy gà có điểm đốm xanh,đen,hoặc đỏ gọi là Hổ 
Trảo. Gà này đá chắc đòn,nhiều thế hiểm ác.
 
67. Vấn Án Hoành Khai: Nó có hình của vảy Phủ Địa hay Án 
Thiên,nhưng chính giữa có một đường lõm xuống,chia đôi vảy. Gà này đá đòn ngang 
hiểm hóc,hay chém hay tạc.
68. Song Phủ Đao: Hai vảy của hàng Quách đóng ngay cựa,sát 
nhau,cùng có 2 đầu nhọn chỉ thẳng vào cựa. Gà này nhạy cựa,khôn lanh,trả đòn tức 
thì.
69. Tam Vinh: Chân gà minh bạch,sạch sẽ.Hành độ,hàng kẽm phải 
đúng cách ,hàng biên phải liên tục,hàng hậu xuống quá cựa. Gà này là Linh kê.
70. Tứ Trụ Giáp: Một chân có 2 Án Thiên,một chân có 2 Phủ Địa. 
Gà này đâm nhiều chém dữ, lấy tấn công làm phòng thủ.
71. Nội Ngoại Hợp Công: Hai hàng 
Thành,Quách rõ ràng,phân minh,sạch sẽ. Tốt.
 
72. Thượng Hạ Giao Chinh: Một Chân có 3 Quấn Cán, chân kia có 3 
điểm Đen hoặc Đỏ.
Gà này rất tài nghệ trong từng thế võ,thế nào cũng hung ác.
 
73. Văn Võ Song Toàn: Một chân có 3 hàng vảy ở mặt tiền, chân 
kia có 2 hàng trơn. Gà này hay đá thế hiểm,biết lợi dụng thời cơ và sơ hở của 
đối phương để tung đòn hiểm ác,giết chết đối thủ trong nháy mắt.
 
74. Tiền Phú Hậu Bần: Chân gà từ cựa đổ lên vảy đóng chặt,rõ 
ràng phân minh. Từ cựa đổ xuống đóng rời rạc,không liền mí. Gà này đá càng lâu 
thì càng yếu sức,không tốt.
 
75. Tam Tài: Mặt tiền chân gà tính từ sát gối xuống đến vảy thứ 
3, có 3 hàng vảy liên tiếp nhau.Gà có Tam Tài là Quý Kê, đòn tài mãnh liệt, đá 
đồng chạng dễ thắng.
 
76. Bàng Khai: Tại hàng Thành hoặc Quách có 1 vảy nứt ra. Tốt.
 
77. Hoàng Thành Chỉ Địa: Hàng Quách có vảy hơi lớn và xéo,chỉ 
xuống cựa . Chân gà này tốt,đá nhanh,đòn khéo léo.
 
78. Áp Khẩu: Hàng Thới có một hàng vảy đi lên thì bỗng chia đôi 
thành 2 vảy nhỏ: Xấu, đường Hoa Đăng không sáng.
 
79. Tứ Quý: Giống như Tam Tài,nhưng có 4 vảy từ gối xuống. Gà 
này rất tốt đường Sinh Đạo.
 
80. Bán Nguyệt Nội< Tốt> : Đôi ngón nội cùng cong cong hình bán 
nguyệt,chỉ vào lòng. Gà  này rất hay,rất tài, tung cước giỏi, lúc đứng thường 2 
ngón nội chạm nhau, còn gọi là móng rồng
81. Song Liên Tự : Hai chân đều có liên 
giáp nội đóng ngang cựa,cùng mở miệng ngậm ngọc, đường thới hoa đăng tốt. Gà này 
có đòn tài,thế hiểm.
 
82. Ngũ Quỷ : Một chân có 3 hàng vảy liên tiếp nhau,đóng từ gối 
đổ xuống đến vảy thứ 5. Gà này hung ác vô cùng,khó có đối thủ cân sức.
 
83. Độc Giác: Hai chân đều có 2 vảy to,cùng mở miệng ngậm ngọc, 
đóng ngay cựa. Gà tài.
 
84. Lưỡng thiệt: Gà này hoàn toàn không có lưỡi, chính là Linh 
Kê.
 
85. Bạch Giáp: Chân Xanh, hoặc Đen, hay Xám, có 1 vảy nhỏ màu 
trắng đóng từ cựa đổ xuống. Gà này chính là Quý Kê.
 
86. No Hậu: Hàng hậu từ gối không bị chia đôi,hay ba vảy. Xuống 
đến cựa vẫn to và rõ ràng.
Gà này thắng trận bền bỉ, tám phần là gà hay.
 
87. Kém Hậu: Hàng Hậu từ gối chia đôi,xuống chưa đến cựa đã nhỏ 
lăn tăn. Gà này không nên dùng.
 
88. Thất Hậu: Hàng Hậu từ gối xuống chia 2 hàng hoặc không liền 
mạch. Gà này cũng không nên dùng.
 
89. Phản Hậu: Hàng Hậu thường up lên, trái lại Phản Hậu úp 
xuống. Những Quý Kê mới có đường tài này.
THẾ ĐÁ
 Điều cần biết là con gà 
	chẳng bao giờ đá một chân, nó luôn luôn nhảy lên đá bằng hai chân, “ngón 
	nghề” trong võ thuật gọi là “song phi”.
Lúc nhảy đá gà dùng sức mạnh, phụ giúp bằng đôi cánh và bộ lông đuôi.
Nạp, xạ: lúc 
	mới xáp trận, còn dư sức, gà không cần nắm mỏ đầu để làm điểm tựa mà đá, 
	chỉ từ xa nhảy lên, vừa đá vừa đâm, gọi là “nạp”, hoặc “xạ” hay “đòn 
	buông”..
Đá lông: nó 
	dùng mỏ nắm chặt bất cứ một chỗ nào làm điểm tựa rồi lấy sức nhảy đá, cánh 
	quạt, cựa đâm, nắm lông mà đá.
Hồi mã thương: hai 
	gà đang đánh nhau, bỗng có con “giả thua” bỏ chạy một vòng, địch thủ liền 
	đuổi theo uy hiếp, không ngờ nó đứng lại, nghiêng qua, lấy thế thật nhanh 
	thật mạnh, đá vào đầu vào cổ địch thủ, có khi nó trổ ngón nghề ấy hai, ba 
	lần, và mỗi khi đá, đôi khi ta thấy nhồi liên tiếp ba bốn đòn, gọi là “hồi 
	mã tam thương”.
Sỏ, mé: cắn 
	mép môi, hay mồm rồi đá trúng mặt, trúng cổ, địch thủ đau vô cùng.
Đá vai: lấy 
	mỏ cắn vai rồi đá thốc lên.
Đá lông yếm: chui 
	đầu xuống gần bụng, nắm lông ngực đá thốc lên, còn gọi là “đá 
	bưng tô”, 
	nếu đòn này trúng, địch thủ sẽ lộn nhào có khi.
Lấn: dùng 
	cần cổ lấn gà địch không cho đứng thăng bằng, thì làm sao địch trổ ngón 
	được.
Vỉa tối: chui 
	cổ vào cánh gà địch, ở luôn trong đó, cắn mổ da non như da nách, đùi non, 
	kẹt cánh, nắm cho chắc mà đá lên, vừa đá vừa đâm, có khi trúng phổi, trúng 
	hông, lợi hại vô cùng.
Vỉa sáng: chuyên 
	luồn cổ vào cánh gà địch, thò đầu lên, bạ đân nắm đó, đá mạnh lên, đòn này 
	sẽ gây cánh địch thủ, ưa bị xệ cánh và mất sức.
Khai vựa lúa: nắm 
	mổ gà địch, dùng sức đá trúng cằm nó, chỗ ấy gọi là “chữ tử”, và gọi là “đá 
	hầu”.
Đâm hang cua: dùng 
	cựa đâm trúng “hang cua”, ở trên ngựa cạnh dưới cổ, nếu đâm sâu, gã giãy 
	chết trào máu miệng tại chỗ.
Nước nạp: lúc 
	đầu mới vào đá, hai gà nhảy lên, bốn chân đọ mạnh vào nhau, nếu đôi cựa chạm 
	nhau gọi là “khắc cựa”.
Nước đứng: nước 
	chịu đứng bền bỉ của gà, càng lâu càng đứng vững để chống trả.
Đi trên: khi 
	đá gà chỉ nhắm vào phần trên địch thủ mà đá vào mỏ, đầu, cổ, ngực, lưng.
Chạy dưới: chỉ 
	thích chui lòn dưới bụng, đội ngược lên, thừa cơ cắn đùi, ngực, bụng, để đấm 
	đá.
Đòn đấm: cắn 
	mổ đầu và nắm mồng lại giáng mạnh hai chân vào mặt, hầu, cổ, ngực v.v..của 
	địch thủ.
Đá ngang: mổ 
	đầu địch thủ, và đứng ngang một bên, đá vào cần cổ, vào mặt.
Quăng: đang 
	đá, gà nhảy cao “quăng” đôi chân vào mặt địch thủ, có khi mạnh quá mình cùng 
	xoay theo.
Liên cước: mổ 
	một lần, đá hai, ba cái liên tiếp.
Độc cước: mổ 
	một lần, đá một cái đích đáng.
Đá mã kỵ: đá 
	trúng mu lưng địch thủ.
Thọc huyết: nhảy 
	thật cao, khi mình gà rơi gần địch thủ, nó mới tung chân đá thọc vào ngực.
Đâm mắt cần: cần 
	cổ gà có từng đốt ráp lại như mắt tre, nếu bị đâm trúng những “mắt” ấy, gà 
	quẹo xương cổ, đứng quay mòng mòng.
Điều cần biết là con gà 
	chẳng bao giờ đá một chân, nó luôn luôn nhảy lên đá bằng hai chân, “ngón 
	nghề” trong võ thuật gọi là “song phi”.
Lúc nhảy đá gà dùng sức mạnh, phụ giúp bằng đôi cánh và bộ lông đuôi.
Nạp, xạ: lúc 
	mới xáp trận, còn dư sức, gà không cần nắm mỏ đầu để làm điểm tựa mà đá, 
	chỉ từ xa nhảy lên, vừa đá vừa đâm, gọi là “nạp”, hoặc “xạ” hay “đòn 
	buông”..
Đá lông: nó 
	dùng mỏ nắm chặt bất cứ một chỗ nào làm điểm tựa rồi lấy sức nhảy đá, cánh 
	quạt, cựa đâm, nắm lông mà đá.
Hồi mã thương: hai 
	gà đang đánh nhau, bỗng có con “giả thua” bỏ chạy một vòng, địch thủ liền 
	đuổi theo uy hiếp, không ngờ nó đứng lại, nghiêng qua, lấy thế thật nhanh 
	thật mạnh, đá vào đầu vào cổ địch thủ, có khi nó trổ ngón nghề ấy hai, ba 
	lần, và mỗi khi đá, đôi khi ta thấy nhồi liên tiếp ba bốn đòn, gọi là “hồi 
	mã tam thương”.
Sỏ, mé: cắn 
	mép môi, hay mồm rồi đá trúng mặt, trúng cổ, địch thủ đau vô cùng.
Đá vai: lấy 
	mỏ cắn vai rồi đá thốc lên.
Đá lông yếm: chui 
	đầu xuống gần bụng, nắm lông ngực đá thốc lên, còn gọi là “đá 
	bưng tô”, 
	nếu đòn này trúng, địch thủ sẽ lộn nhào có khi.
Lấn: dùng 
	cần cổ lấn gà địch không cho đứng thăng bằng, thì làm sao địch trổ ngón 
	được.
Vỉa tối: chui 
	cổ vào cánh gà địch, ở luôn trong đó, cắn mổ da non như da nách, đùi non, 
	kẹt cánh, nắm cho chắc mà đá lên, vừa đá vừa đâm, có khi trúng phổi, trúng 
	hông, lợi hại vô cùng.
Vỉa sáng: chuyên 
	luồn cổ vào cánh gà địch, thò đầu lên, bạ đân nắm đó, đá mạnh lên, đòn này 
	sẽ gây cánh địch thủ, ưa bị xệ cánh và mất sức.
Khai vựa lúa: nắm 
	mổ gà địch, dùng sức đá trúng cằm nó, chỗ ấy gọi là “chữ tử”, và gọi là “đá 
	hầu”.
Đâm hang cua: dùng 
	cựa đâm trúng “hang cua”, ở trên ngựa cạnh dưới cổ, nếu đâm sâu, gã giãy 
	chết trào máu miệng tại chỗ.
Nước nạp: lúc 
	đầu mới vào đá, hai gà nhảy lên, bốn chân đọ mạnh vào nhau, nếu đôi cựa chạm 
	nhau gọi là “khắc cựa”.
Nước đứng: nước 
	chịu đứng bền bỉ của gà, càng lâu càng đứng vững để chống trả.
Đi trên: khi 
	đá gà chỉ nhắm vào phần trên địch thủ mà đá vào mỏ, đầu, cổ, ngực, lưng.
Chạy dưới: chỉ 
	thích chui lòn dưới bụng, đội ngược lên, thừa cơ cắn đùi, ngực, bụng, để đấm 
	đá.
Đòn đấm: cắn 
	mổ đầu và nắm mồng lại giáng mạnh hai chân vào mặt, hầu, cổ, ngực v.v..của 
	địch thủ.
Đá ngang: mổ 
	đầu địch thủ, và đứng ngang một bên, đá vào cần cổ, vào mặt.
Quăng: đang 
	đá, gà nhảy cao “quăng” đôi chân vào mặt địch thủ, có khi mạnh quá mình cùng 
	xoay theo.
Liên cước: mổ 
	một lần, đá hai, ba cái liên tiếp.
Độc cước: mổ 
	một lần, đá một cái đích đáng.
Đá mã kỵ: đá 
	trúng mu lưng địch thủ.
Thọc huyết: nhảy 
	thật cao, khi mình gà rơi gần địch thủ, nó mới tung chân đá thọc vào ngực.
Đâm mắt cần: cần 
	cổ gà có từng đốt ráp lại như mắt tre, nếu bị đâm trúng những “mắt” ấy, gà 
	quẹo xương cổ, đứng quay mòng mòng.